Thông tin: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

Thảo luận trong 'Dinh dưỡng' bởi medshopvn, 19/9/2012.

  1. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Vitamin K

    Trong khi giúp cơ thể chống lại chứng loãng xương, tổn thương da, và có thể là ung thư, vitamin K còn có vai trò rất quan trọng khi giúp làm đông máu sau khi bị thương. Vitamin K có trong rất nhiều loại thức ăn, đặc biệt là rau xanh, và thông thường được tổng hợp trong ruột già của cơ thể. Tuy vậy, có rất nhiều nguyên nhân làm cho cơ thể không hấp thụ đủ lượng cần thiết.

    Một số loại thuốc, như thuốc kháng sinh và thuốc chống đông máu có thể là các chướng ngại vật. Một số tổn thương hay một vài bệnh như bỏng nặng, các vấn đề về túi mật, và bệnh gan cũng có thể gây ảnh hưởng đến nồng độ vitamin K. Vitamin K hiếm khi được lưu trữ trong cơ thể, chúng ta phải đặc biệt chú ý đến trẻ em trong thời kì bú sữa và những người có tuổi. Người cao tuổi thường uống nhiều thuốc, ăn uống kém, vì thế sẽ rất khó để tổng hợp vitamin K trong ruột. Vì sữa mẹ có nồng độ vitamin K thấp, nên trong thời kì cho con bú, nên ăn nhiều rau xanh, hay dùng viên uống bổ sung có chỉ dẫn của bác sĩ là rất cần thiết.

    Vitamin K tạo ra một vài protein giúp làm đông máu khi bạn bị chảy máu, đồng thời sản xuất protein cho máu, xương, và thận. Rất có thể những người đang sử dụng thuốc làm giảm cung cấp máu như aspirin cần giới hạn lượng thức ăn có chứa vitamin K. Có ba loại vitamin K chính, đó là: loại được tìm thấy trong thức ăn, gọi là phylloquinone; loại nhân tạo, gọi là menadione, loại được cơ thể tổng hợp, gọi là menaquinone.

    Những thức ăn có chứa vitamin K: cải lá, cải xoăn, và những loại rau rậm lá khác, họ bắp cải bao gồm cây bông cải xanh, xúp lơ, cải bruxen, lòng đỏ trứng, một vài loại trái cây, gan, pho mát, và sữa.

    Bạn có biết tầm quan trọng của vitamin K?

    Hầu hết mọi người đều chưa nhận thức được hết tầm quan trọng của vitamin K với cơ thể. Chúng ta thường nghĩ rằng vitamin K chỉ làm việc trong gan, giúp hình thành các yếu tố làm đông máu, ngăn cản quá trình chảy máu của cơ thể. Bạn phải lưu ý rằng nếu dùng thuốc Coumadin© (warfarin), một loại thuốc làm loãng máu, thì tuyệt đối không được bổ sung vitamin K vì nó sẽ làm phản tác dụng của thuốc này. Đó là bởi vì Coumadin hạn chế sự sản xuất các nhân tố làm đông máu trong gan, mà những nhân tố này lại phụ thuộc vào vitamin K.

    Vitamin K còn có một số hoạt động rất tích cực khác đối với cơ thể, đặc biệt là giúp chúng ta điều hòa canxi. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng vitamin K giúp ích cho quá trình tích trữ canxi trong xương. Một phần của hoạt động này liên quan đến việc loại bỏ canxi ra khỏi một số vị trí không mong muốn như các mảng bám trong động mạch. Thử nghĩ xem - nếu cơ thể bạn có đủ vitamin K, khi đó bạn sẽ tích trữ được canxi trong cấu trúc xương và làm cho xương chắc khỏe, chứ không phải trong động mạch nơi nó có thể nguy hiểm đến tính mạng. Các nghiên cứu gần đây cũng cho rằng vitamin K còn làm giảm nguy cơ phát triển chứng giãn tĩnh mạch không mong muốn, tăng cường sức khỏe trí não, và làm giảm nguy cơ gãy xương.

    Có ba loại vitamin K, đó là K1, K2, và K3


    K1 (còn gọi là phylloquinone hay phytonadione) có nhiều trong các loại rau nhiều lá xanh đậm và gan. Bạn nhớ thủy thủ Popeye đã ăn rau bina suốt chứ? Rau bina chứa vitamin K1. Bông cải xanh, cải bắp, cải bruxen, và rau diếp cũng như vậy. Vitamin K1 cũng là dạng được dùng trong các loại vitamin K bổ sung mà bác sĩ thường kê đơn. Tuy nhiên, vitamin K1 chỉ có trong chất diệp lục của các thực phẩm này, vì thế sẽ khó cho chúng ta chiết xuất vitamin này để sử dụng. Vitamin K chủ yếu tập trung trong gan, chứ không phải trong xương. Dùng đúng liều vitamin K bổ sung để cung cấp đầy đủ cho cơ thể. Nếu bạn dùng thuốc Coumadin, việc dùng các thực phẩm trên và viên uống bổ sung phải hết sức hợp lí. Điều đó có nghĩa là, dùng các lượng thực phẩm và vitamin K giống nhau mỗi tuần và phải theo dõi chặt chẽ các tác dụng của Coumadin trong máu.

    Sản phẩm tôi yêu thích là Full Spectrum Vitamin K và tôi khuyên các bạn dùng một viên vào các ngày thứ hai, thứ tư, và thứ sáu. Nên dùng viên uống bổ sung vitamin K trong các bữa ăn chứa mỡ để có thể hấp thụ tốt nhất.

    Tất cả những người trưởng thành đều được khuyên dùng vitamin K2 bổ sung trừ khi họ dùng Coumadin (warfarin). Bạn có thể vừa dùng bổ sung vitamin K vừa uống Coumadin, nhưng nhớ rằng chỉ được làm điều đó khi có bác sĩ theo dõi chặt chẽ lượng Coumadin, và phải dùng rất ổn định lượng vitamin bổ sung.

    Vitamin K2 có trong nhiều dạng khác nhau gọi là menaquinones. MK-4 có trong thịt, trong khi MK-7 có trong natto lên men. Dạng MK-7 của vitamin K2 có lẽ là dạng có công dụng mạnh nhất trong cơ thể và đã được nghiên cứu rất sâu. Khả năng hấp thụ của nó cao hơn K1 mười lần, và có thể tồn tại trong máu đến 3ngày sau khi được đưa vào cơ thể. Dạng MK-7 của vitamin K2 có thể tồn tại trong cơ thể lâu nhất. Vitamin này cũng tập trung nhiều ở thành động mạch và xương hơn vitamin K1.
     
    Đang tải...


  2. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Vitamin K2 tự nhiên - MenaQ7

    Tác dụng của Vitamin K2 tự nhiên: Vitamin K2 tự nhiên bảo vệ động mạch và tim, giữ cho xưong chắc khỏe, hoạt hóa các protein phụ thuộc vitamin K. Ngoài ra, Vitamin K2 tự nhiên còn có tính khả dụng sinh học cao, và có tác dụng tự nhiên đến 72 giờ.

    Vitamin K2 bảo vệ tim và xương của bạn

    Hãy tưởng tượng ra một loại vitamin có thể giữ canxi trong xương và loại bỏ canxi ra khỏi động mạch của bạn. Làm được điều này, vitamin đó đã cùng một lúc chống lại các cơn đau tim và bệnh loãng xương. Bạn có thể không tin là có một loại vitamin như thế, tuy nhiên các nghiên cứu đã chứng minh rằng vitamin K2 làm chính xác nhiệm vụ đó! Vitamin K2 giúp điều hòa canxi. Xương cần canxi, trong động mạch không thể có canxi. Vitamin K2 giúp ích cho cả hai: xương và động mạch.

    Vitamin K2 - sự cần thiết cho động mạch và xương chắc khỏe

    Chứng loãng xương và bệnh tim dường như chẳng có mối liên hệ nào với nhau vì triệu chứng của chúng rất khác nhau. Tuy vậy, nhìn bề ngoài, chúng có một vài điểm tương đồng. Trước hết, cả hai bệnh đều có xu hướng phát triển cùng với tuổi tác của con người. Rất hiếm gặp người mắc những bệnh này ở tuổi 30, tuy vậy ở tuổi 60, 70, chúng lại rất phổ biến. Như vậy, cả hai bệnh này đều không xuất hiện chỉ trong một sớm một chiều, ngược lại, phải mất nhiều năm mới thấy các triệu chứng của chúng. Cũng giống như bệnh loãng xương tiến triển trong hàng thập kỉ, chứng xơ vữa động mạch vành cũng phát triển từ từ, qua rất nhiều năm, bắt đầu khi con người ở tuổi 20 (hoặc sớm hơn), nó phát triển từ từ cho đến khi xuất hiện một cơn đau tim hoặc các tai biến khác. Tuy vậy, khi suy xét kĩ hơn thì sẽ thấy hai bệnh này không còn có điểm chung nữa.

    Vitamin K là gì?

    Vitamin K không chỉ là một vitamin, mà là một nhóm các vitamin tan trong mỡ rất cần thiết để cơ thể sử dụng canxi giúp xương và động mạch khỏe mạnh. Vitamin K cũng rất cần thiết cho gan để làm đông máu. Chính vì thế, nhóm vitamin này có vai trò thiết yếu với cơ thể con người.

    So với các vitamin khác, vitamin K có vai trò khá đặc biệt. Nó hoạt hóa các nhân tố làm đông máu, osteocalcin và MGP - đây là những loại protein được tổng hợp trong các cơ quan khác nhau của cơ thể: các yếu tố làm đông máu được tổng hợp trong gan, osteocalcin trong xương, và MGP trong hệ mạch máu. Những protein này giúp làm đông máu, liên kết canxi trên bề mặt của xương, và loại bỏ lượng canxi tích tụ trong động mạch.

    Vitamin K điều hòa canxi

    Nghiên cứu gần đây đã công bố rằng, nếu không có vitamin K2, quá trình điều tiết canxi sẽ bị phá vỡ. Trên thực tế, thiếu vitamin K2 có liên quan đến việc có nguy cơ cao mắc các bệnh tim mạch và chứng xơ vữa động mạch. Các bác sĩ giỏi từ lâu đã biết rằng, những người thiếu canxi trong xương thường có nguy cơ cao thừa canxi trong động mạch, và ngược lại. Thiếu canxi trong xương gây ra bệnh loãng xương, trong khi canxi lắng đọng trong động mạch dẫn tới bệnh mạch máu vành tim, và các bệnh liên quan đến tim mạch, thận, và thoái hóa thần kinh khác.

    Vitamin K2 làm việc như thế nào?

    Vitamin K làm việc nhờ một loại amino axit tên là GLA, viết tắt của axit gamma-carbonxyglutamic. GLA là một phần của một loại protein điều hòa canxi. Có 15 loại protein như thế đã được tìm thấy, nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng có ít nhất 100 loại phân bố khắp cơ thể con người. Vitamin K giúp chúng làm việc, và đó là loại vitamin duy nhất có thể làm được việc đó.

    Vitamin K gắn trên các protein đó một nhóm gọi là carbonxylation. Carbonxylation tạo cho các protein này những cái móc (claws) để chúng có thể bám vào các phân tử canxi. Khi protein này đã bám vào canxi rồi, chúng có thể được đưa đi khắp cơ thể. Những protein không có đủ vitamin K sẽ không có móc. Khi đó, chúng được gọi là undercarbonxylated và không thể điều hòa canxi được. Nếu không được protein chức năng điều hòa, canxi sẽ trôi ra khỏi xương, vào động mạch, và các mô mềm khác.

    Vitamin K2 bảo vệ xương

    Protein GLA nổi bật nhất là osteocalcin. Có thể bạn đã nghe nói osteocalcin có liên quan đến độ đặc của xương. Điều bạn có thể chưa biết đó là nó cần vitamin K để làm việc.

    Undercarbonxylated osteocalcin (osteocalcin không có vitamin K) sẽ không thể điều hòa canxi. Khi điều này xảy ra canxi sẽ rời xương và răng. Phụ nữ có undercarbonxylated osteocalcin bài tiết ra canxi, và xương họ rất xốp. Vitamin K giúp đảo ngược tình hình này.

    Vitamin K2 bảo vệ các động mạch

    Vitamin K kiểm soát các protein điều hòa canxi trong mô mạch máu. Những protein phụ thuộc vitamin K này (bao gồm osteocalcin và matrix GLA protein) đã được chứng minh là giúp ngăn cản quá trình vôi hóa trong mạch, nói cách khác là chúng giúp loại bỏ canxi ra khỏi động mạch. Sự hoạt hóa các protein điều hòa canxi này phụ thuộc vào sự sẵn có của vitamin K. Khi không có đủ vitamin K để hoạt hóa các protein này, lượng canxin tích tụ sẽ chuyển thành các mảng xơ vữa động mạch, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, và dẫn đến một triệu chứng mà người ta thường gọi là bệnh xơ cứng động mạch. Điều này giúp giải thích tại sao những bệnh nhân dùng thuốc chống đông máu (như Coumadin), loại thuốc phá hủy vitamin K trong cơ thể, lại mắc bệnh xơ cứng động mạch rất nhanh.

    Các nghiên cứu chứng minh tác dụng của vitamin K2

    Nghiên cứu Rotterdam Study (công bố năm 2004) đã chỉ ra rằng, những người có chế độ ăn nhiều vitamin K2 tự nhiên trong vòng hơn 10 năm theo dõi có rất ít canxi tích tụ trong động mạch, và sức khỏe tim mạch của họ cũng tốt hơn rất nhiều. Tuy vậy, nghiên cứu này đã không công bố tác dụng của vitamin K1. MenaQ7, vitamin K2 tự nhiên như MK-7, đã được các nghiên cứu chỉ ra là có tác dụng rất lớn khi làm tăng lượng MGP tích cực, một chất có khả năng kìm hãm quá trình vôi hóa trong các mô mạch.

    Vitamin K2 giúp giảm nguy cơ tử vong vì các bệnh tim mạch tới 50%


    Các phát hiện trong nghiên cứu Rotterdam Study chỉ ra rằng chế độ ăn giàu vitamin K2 (không phải là vitamin K1) có tác dụng rất tích cực đối với sức khỏe tim mạch. Kết quả của một nghiên cứu dân số gồm 4807 nam giới và phụ nữ trên 55 tuổi khẳng định rằng nếu cung cấp cho cơ thể nhiều vitamin K2 tự nhiên (ít nhât 32 mcg mỗi ngày) thì có thể giảm nguy cơ tử vong vì vôi hóa động mạch và các bệnh tim mạch lên đến 50% mà không gây ra những tác dụng phụ không mong muốn.

    Bản tóm tắt hệ thống của 7 thử nghiêm bất kì có theo dõi (trong những thử nghiệm này, những người trưởng thành được uống bổ sung vitamin K1 hoặc K2 trong ít nhất sáu tháng), đã công bố, vitamin K2 tỏ ra hữu hiệu nhất, làm giảm nguy cơ tổn thương đốt sống tới 60%, giảm nguy cơ tổn thương xương hông tới 77%, và có thể giảm nguy cơ tổn thương các xương ngoài đốt sống tới 81%.

    Vitamin K trong thức ăn

    Hai dạng quan trọng nhất là vitamin K1 (phylloguinone) và K2 (menaquinones). Vitamin K1 là nguồn cơ bản của vitamin K trong thức ăn, và rất cần cho quá trình đông máu của cơ thể. Vitamin K2 tồn tại ở vài dạng, những dạng phổ biến nhất là menaquinone tổng hợp 4 (MK4) và menaquinone tự nhiên 7 (MK-7). Có thể tìm thấy vitamin K2 có dạng MK-7 trong các loại thức ăn đã được lên men, như pho mát chín, sữa đông, và natto (những hạt đậu nành đã luộc chín được ủ với Enzim (Bacillus natto) ở một môi trường 40°C trong vòng 14-18 giờ để lên men thành những hạt đậu có màu nâu, độ nhờn nhớt cao và bền (chứa nhiều Acid Glutamic), một món ăn truyền thống của người Nhật, món này chứa nhiều MK-7 hơn bất cứ món ăn nào khác. Vitamin K2 rất cần để giúp hình thành và duy trì xương chắc khỏe, cũng như để ngăn cản quá trình tích tụ canxi trong động mạch.

    Cơ thể không thể tự tổng hợp được vitamin K, vì thế con người hầu như phải thu nạp vitmamin K từ thức ăn hàng ngày. Tuy vậy, có nhiều dấu hiệu rõ ràng rằng dân số các nước phương Tây thiếu vitamin K vì chế độ ăn không hợp lí. Chính vì vậy, việc bổ sung vitamin K2 cho phù hợp với nhu cầu cơ thể là rất quan trọng.

    Vitamin K1 có nhiều trong các loại rau xanh lá đậm màu, như rau bina, cây cải bông, và cải xoăn. Tuy vậy, vitamin K1 rất khó hấp thụ vào cơ thể từ thức ăn. Chỉ có khoảng 10% được hấp thụ vào tuần hoàn máu, có nghĩa là chỉ một lượng nhỏ có khả năng tới được các vùng ngoại biên trong cơ thể. Hơn nữa, gan cũng hấp thụ vitamin K1, để lại một lượng rất ít cho các mô khác. Chính vì thế mà vitamin K1 không có hoặc có rất ít ảnh hưởng tới sức khỏe tim mạch.

    Vitamin K2 tự nhiên được tổng hợp trong quá trình lên men vi khuẩn, vì thế vitamin này có trong một số loại thức ăn như pho mát và sữa đông (dùng làm pho mát). Vì những loại thức ăn này chỉ chứa một lượng nhỏ vitamin K2 nên chúng ta phải ăn nhiều mới cung cấp đủ cho cơ thể lượng cần thiết. Nguồn cung cấp vitamin K2 tự nhiên phong phú nhất là natto-một món ăn truyền thống của Nhật Bản. Món ăn này chứa rất nhiều vitamin K2 dưới dạng một chuỗi menaquinone-7 dài. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc ăn natto của người Nhật giúp tăng lượng vitamin K hấp thụ vào cơ thể, từ đó làm cho xương chắc khỏe hơn nhiều. Tuy vậy, vì có mùi hơi nồng và vị hơi khó chịu nên natto ít phổ biến hơn ở các nước phương Tây. Chính vì thế, uống bổ sung vitamin K2 sẽ là giải pháp tốt hơn. Viên uống bổ sung tốt nhất là MenaQ7, vitamin K2 tự nhiên.

    MenaQ7 - vitmamin K2 tốt nhất

    Trong vitamin K2 tự nhiên có MenaQ7, dạng vitamin K bổ sung hoạt động tích cực nhất có bán trên thị trường hiện nay (MK-7). MenaQ7 là chiết xuất hoàn toàn tự nhiên từ món natto của người Nhật. Trải qua hàng thế hệ người Nhật dùng natto như một món ăn an toàn nhằm tăng cường sức khỏe tim mạch và xương cốt. MenaQ7 cần thiết để cơ thể sử dụng canxi giúp xương chắc khỏe và ngăn ngừa sự tích tụ canxi trong động mạch, vì thế giúp chống bệnh xơ cứng động mạch.

    Tất cả các dạng vitamin K đều có cấu trúc tương tự nhau: thành phần cơ bản giống nhau, nhưng khác nhau về số lượng nguyên tử cacbon và hidro tạo thành mạch nhánh. Độ dài của mạch nhánh này ảnh hưởng đến hiệu quả của vitamin K. Side chain càng dài thì hấp thụ càng tốt, hoạt động sinh học và thời gian tồn tại trong mạch máu lâu hơn, do đó dễ dàng đáp ứng nhu cầu cơ thể. Chính vì thế, những chuỗi menaquinone dài (đặc biệt là MK-7) là lí tưởng nhất.

    Tác dụng của vitamin K2 tự nhiên: Vitamin K2 tự nhiên có nhiều tác dụng như, có tính khả dụng sinh học cao, lên tới 72 giờ, có thể tồn tại trong máu rất lâu, vì thế có thể cung cấp cho các mô bất cứ khi nào cần. Ngoài ra, vitamin này còn hoạt động tích cực trong các mô ngoài gan như xương, động mạch, và các mô mềm.

    Độ an toàn của vitamin K2 tự nhiên?


    Viamin K2 tự nhiên chứa MenaQ7, một chiết xuất hoàn toàn tự nhiên từ natto, một món ăn truyền thống của người Nhật, đây là loại thức ăn giàu vitamin K2 tự nhiên (MK-7) nhất từng được biết đến. Các tài liệu cho biết MK-7 cung cấp hoạt động và lượng vitamin K tối ưu cho cơ thể, làm nó trở thành lựa chọn tối ưu để bổ sung. MenaQ7 rất cần để cơ thể sử dụng canxi giúp xương chắc khỏe, đồng thời ngăn ngừa sự tích tụ canxi trong động mạch, vì thế giúp chống gây xơ cứng động mạch.

    - Vitamin K2 tự nhiên phát huy hiệu quả dù là dùng lượng nhỏ - các chuyên gia khuyên chỉ cần dùng 45 mcg mỗi ngày để duy trì xương và tim mạch khỏe mạnh.
    - Vitamin K2 không có tác dụng phụ - dù Natto/ MK-7 đã được dùng hàng ngàn năm ở Nhật, nhưng cho tới nay ngoại trừ rất nhiều lợi ích của MK-7, vẫn chưa có tác dụng tiêu cực nào được phát hiện.
    - Vitamin K2 không gây ra hiện tượng máu đặc hay siêu đông máu ở người khỏe mạnh. Vitamin K2 hoạt hóa một số protein làm đông máu trong gan. Khi những protein này được kích hoạt đến mức tối đa thì sẽ không xảy ra hoạt động kích hoạt nữa, cho dù có dư thừa nhiều vitamin K. Cần các nhân tố kích thích khác trước khi bắt đầu quá trình đông máu.
    - Vitamin K2 tự nhiên rất an toàn. 45 mcg không thể độc hại kể cả với người đang dùng thuốc kháng đông máu như coumarin/warfarin, tuy nhiên, việc này nhất thiết phải có sự tư vấn của chuyên gia.

    Hướng dẫn sử dụng

    Hàng ngày bạn nên uống một viên con nhộng trong hoặc sau bữa ăn chính. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng 45 mcg vitamin K2 (trong 1 viên con nhộng) không có nguy cơ can thiệp tiêu cực tới cơ thể con người, ngay cả với những bệnh nhân đang điều trị chống đông tụ với coumarin hay warfarin. Mặc dù vậy, nếu bạn đang sử dụng các thuốc chống đông tụ và đang cân nhắc việc sử dụng vitamin K2 thì hỏi thăm ý kiến bác sỹ là điều thực sự cần thiết.

    Hỏi và trả lời:


    MenaQ7 và các loại vitamin K2

    Tất cả các loại vitamin K đều giống nhau về mặt cấu trúc: chúng có chung thành phần cơ bản, nhưng lại khác nhau về số lượng nguyên tử cacbon và hidro thiết lập nên "side chain". Chiều dài của chuỗi này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của vitamin K. Chuỗi càng dài thì khả năng hấp thụ càng tốt, hoạt động sinh học và thời gian tồn tại trong dòng máu lâu hơn, do đó sẽ sẵn sàng cho mọi hoạt động của cơ thể. Kết quả là, những chuỗi menaquinones dài (đặc biệt là MK-7) là lí tưởng nhất vì chúng gần như được hấp thụ hoàn toàn, tức là cơ thể cần lượng menaquinones ít hơn để thực hiện các chức năng của mình (hoạt động sinh học cao). Thêm vào đó, chúng được lưu trữ lại trong máu lâu hơn, sẵn sàng cho tất cả các tế bào khi cần. Chúng còn là dạng có hoạt tính mạnh nhất, ảnh hưởng rất lớn đến các loại protein phụ thuộc vitamin K, và hoạt động mạnh ở các mô ngoài gan, bao gồm xương, động mạch, và các mô mềm khác.

    Ba dạng vitamin K có sẵn trong các loại thức ăn bổ sung hiện nay là vitamin tổng hợp K1, MK4, vitamin tự nhiên K2 (MK-7). Trong vòng hơn 30 năm, các chuyên gia về vitamin K tại trường Đại học Maastricht đã nghiên cứu về tính khả dụng sinh học và tính độc hại sinh học của cả ba loại bổ sung này. MenaQ7 được cho là hiệu quả hơn hẳn so với K1 và MK-4 nhờ tính khả dụng sinh học và hoạt tính sinh học rất cao, nhưng cũng vẫn rất an toàn.

    MenaQ7 và các chất kháng đông


    Ngăn ngừa quá trình vôi hóa không mong muốn nhưng đồng thời vẫn giữ cho xương chắc khỏe là việc rất quan trọng đối với hàng triệu người trên thế giới hiện nay. Vì vậy bạn nên biết rằng vitamin tự nhiên K2 rất an toàn. Người ta chưa tìm ra hiệu ứng kích thích nào do MenaQ7 gây nên trong quá trình làm đông máu ở những người khỏe mạnh khi dùng lượng thích hợp 45 mcg mỗi ngày.
     
  3. sourlemonvn

    sourlemonvn Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    22/4/2009
    Bài viết:
    4,167
    Đã được thích:
    323
    Điểm thành tích:
    173
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Cám ơn chủ tp về những thông tin bổ ích
     
  4. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Thiếu vitamin

    Sự thiếu các nhân tố thức ăn, hay nói cách khác, các vitamin nói trên, sẽ gây ra các bệnh về thiếu vitamin, làm sai lệch chức năng của các quá trình sinh hóa trong cơ thể. Một loại vitamin có thể cần cho rất nhiều quá trình, nên sẽ rất nguy hiểm nếu thiếu các vitamin này. Thí dụ, có đến trên hai trăm enzim cần vitamin niaxin, vì thế, thiếu vitamin này, hai trăm enzim kia không thể hoạt động bình thường được.

    Thiếu vitamin trong thời gian dài còn gây ra các bệnh thiếu hụt mãn tính, có thể nguy hiểm và thuộc dạng đáng lo nhất hiện nay như ung thư, tiểu đường và các bệnh về tim mạch.

    Vấn đề đáng nói ở đây là những bệnh này không những có thể phòng tránh được mà còn có thể phòng tránh dễ dàng và không tốn kém. Chỉ cần ăn uống đúng cách là có thể cung cấp những chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, trong đó có một lượng lớn các loại vitamin, giúp cơ thể chống lại nhiều loại bệnh tật.

    Bổ sung vitamin là rất cần thiết khi cơ thể và khẩu phần ăn của bạn không cung cấp đủ dinh dưỡng.

    Thức ăn đa dạng luôn là nguồn cung cấp vitamin tốt nhất, vì nó chứa rất nhiều chất dinh dưỡng bao gồm các khoáng chất và các phytonutrient (những chất dinh dưỡng cao từ thực vật được tìm thấy trong rau và trái cây). Dù thế, nhưng lại có rất nhiều người không được cung cấp đủ các chất dinh dưỡng từ thức ăn. Có thể vì họ không thể ăn đủ, hoặc ăn không đúng thức ăn. Điều đó có thể do tình trạng sức khỏe về thể chất và tinh thần, lối sống như công việc, thời gian, thậm chí là do nghèo đói. Trong những trường hợp như vậy, việc bổ sung vitamin là rất quan trọng.
     
  5. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Bổ sung thường xuyên các loại vitamin

    By Darrell M.


    Thường xuyên bổ sung các loại vitamin là việc rất quan trọng, vì tác dụng tích cực của chúng với cơ thể con người chỉ có được sau một quá trình tích lũy lâu dài chứ hoàn toàn không phải là chuyện một sớm một chiều.
    Tuy nhiên, trước khi xem xét về những tác dụng của việc bổ sung vitamin thường xuyên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu tại sao vitamin lại là một phần thiết yếu trong những nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể con người.

    Có rất nhiều người biết rằng các loại vitamin là rất cần thiết nhưng lại không hiểu lý do tại sao. Vitamin là các phân tử hữu cơ rất cần thiết cho hoạt động chuyển hóa bình thường của cơ thể. Rất nhiều chức năng trong cơ thể chúng ta không thể làm việc hiệu quả nếu không có sự tham gia của vitamin như quá trình sinh sản, việc phân chia tế bào, quá trình tiêu hóa, sự đông máu, sản sinh năng lượng, vv...

    Các quá trình hóa học của sự sống không thể hoạt động nếu thiếu sự góp mặt của các loại vitamin. Một số loại vitamin là các hợp chất hữu cơ phức tạp, và đó là lý do tại sao chúng ta sử dụng tên là các chữ cái thay vì các tên gọi thông thường. Cơ thể không thể tự tạo được vitamin, vì thế vitamin phải được thu nhận qua thức ăn hoặc qua thực phẩm bổ sung.

    Nếu sở hữu chế độ ăn chưa thực sự hợp lý, nghĩa là bạn đã không cung cấp đủ lượng vitamin cần thiết cho một cơ thể khỏe mạnh. Chúng ta đã biết có tối thiểu 13 loại vitamin, và mỗi loại đều thực sự quan trọng cho cuộc sống khỏe mạnh và giúp tạo ra nguồn năng lượng chúng ta cần.

    Đối với những người cao tuổi, vì chế độ ăn đôi khi không thực sự phong phú, cần bổ sung một lượng vitamin hợp lý để có thể chống lại chứng cứng cơ hay chuột rút mà những năm tuổi già hay mắc phải. Mọi người đều cần vitamin đơn giản vì muốn duy trì chất lượng và tận hưởng cuộc sống lâu dài hơn. Nếu không có vitamin, các quá trình của sự sống sẽ chậm lại, và cơ thể con người sẽ là đối tượng để hàng loạt các loại bệnh tấn công. Mặc dù vitamin không cung cấp năng lượng, nhưng chúng giúp cơ thể chuyển hóa thức ăn và sinh ra năng lượng.

    Phụ nữ mang thai cần bổ sung vitamin đều đặn để giúp cho thai nhi khỏe mạnh, và tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh nở cần cung cấp thêm axit folic. Những người có thói quen uống nhiều rượu bia, đặc biệt là rượu, cũng nên bổ sung thêm vitamin vì họ thường không hấp thụ được các vitamin tan trong nước. Có rất nhiều người không thể duy trì được chế độ ăn hợp lý có đầy đủ vitamin cho cơ thể, do vậy mà việc bổ sung thêm là rất quan trọng.

    Tuy vậy, sẽ không thực sự có lợi nếu như chỉ thỉnh thoảng bạn mới uống các viên vitamin bổ sung, vì như vậy sẽ không cung cấp đủ mức độ mà cơ thể chúng ta yêu cầu. Vitamin không phải là thuốc, vì chúng ta chỉ uống thuốc những khi cơ thể gặp các vấn đề về sức khỏe. Ngược lại, vitamin phải được bổ sung thường xuyên và đều đặn, thông qua các loại thức ăn tự nhiên hoặc uống các viên uống bổ sung.

    Một số cách chế biến thức ăn hiện nay, bao gồm việc nấu quá nhừ, có thể phá hủy hoặc làm giảm một vài các loại vitamin tự nhiên có trong thức ăn. Chẳng hạn như, vitamin C sẽ biến mất khỏi các loại rau khi đun sôi trong nước và bị phá hủy dưới nhiệt độ nấu ăn. Việc bổ sung vitamin vào chế độ ăn ngày càng trở nên cần thiết để đảm bảo rằng việc hấp thụ các chất này được thường xuyên duy trì ở mức độ thích hợp.

    Nếu muốn biết thêm về các loại vitamin và các viên uống bổ sung đang có mặt trên thị trường, bạn nên tìm hiểu thêm trên internet. Nhiều trang web có thể cung cấp thêm thông tin và đưa ra lời khuyên, chẳng hạn như bắt đầu uống viên bổ sung như thế nào. Tuy vậy, nhìn chung cách tốt nhất để bạn đảm bảo rằng mình đang duy trì mức độ vitamin phù hợp là hãy bắt đầu với vitamin tổng hợp.

    Điều này sẽ giúp bạn hấp thụ vitamin ở mức độ thích hợp, trong khi vẫn có thể dành thời gian xem xét lại khẩu phần ăn của mình, và quyết định uống loại bổ sung nào là cần thiết nhất. Ví dụ như, bạn ăn rất nhiều rau và hoa quả nhưng lại không dùng bất kỳ sản phẩm sữa nào, thì chỉ dùng thêm vitamin B12 - có tự nhiên trong các loại thịt, cá và các sản phẩm sữa - là đủ. Có một số loại vitamin tan trong nước, và không được dự trữ trong cơ thể. Chúng phải được hấp thụ vào cơ thể mỗi ngày, vì thế, nếu hàng ngày bạn không ăn các loại thức ăn phù hợp thì nên uống thêm các viên uống bổ sung.

    Những loại vitamin tan trong nước bao gồm vitamin C và các vitamin B tổng hợp. Tuy vậy, trong khi đối với các loại vitamin này việc bổ sung thường xuyên là cần thiết, thì đối với các vitamin tan trong mỡ (vitamin được dự trữ trong cơ thể và sử dụng khi cần) lại không như vậy. Việc bổ sung thêm các loại vitamin tan trong mỡ cũng rất quan trọng, nhưng không nên dùng quá liều. Nếu bạn chưa chắc chắn về bổ sung loại vitamin nào, hoặc chưa được các chuyên gia về dinh dưỡng hay bác sỹ tư vấn, thì bổ sung các loại vitamin tổng hợp được chế biến có công thức cẩn thận là lựa chọn tốt hơn so với các loại vitamin đơn lẻ.

    Vì vitamin được sử dụng bởi cơ thể chúng ta, nên chúng phải được thay thế lượng đã tiêu hao một cách đều đặn. Trước kia, các thủy thủ được khuyên dùng chanh để bổ sung vitamin C giúp chống lại bệnh hoại huyết. Việc này khá hiệu quả, tuy nhiên khi họ sử dụng hết chanh thì bệnh này lại xuất hiện. Bạn phải bổ sung vitamin đều đặn để giúp thay thế những lượng vitamin đã dùng.

    Các viên bổ sung vitamin tổng hợp được chế biến theo công thức phù hợp giúp duy trì lượng vitamin cần thiết trong cơ thể. Chúng giúp cho cơ thể bạn vẫn giữ lại các vitamin tan trong dầu khi cần thiết trong khi các loại vitamin tan trong nước đã bị loại ra khỏi cơ thể. Điều có lợi ở đây là bạn không phải lo nghĩ về việc uống các viên bổ sung đơn lẻ vào các thời gian khác nhau trong ngày, mà đơn giản chỉ cần uống liều lượng được khuyên vào những lúc cố định.

    Nếu bạn không uống các viên bổ sung đều đặn, thì các quá trình hóa học trong cơ thể sẽ hoạt động chậm lại. Có thể bạn sẽ bắt đầu thấy xuất hiện các triệu chứng đau ốm, hoặc bạn không thể nhận thức được thực tế là sự trao đổi chất trong cơ thể mình đang chậm lại vì tình trạng đó có thể ảnh hưởng tới các tế bào não. Việc thiếu hụt vitamin xảy ra dưới rất nhiều hình thức và không phải chúng ta luôn luôn nhìn thấy được điều này. Thiếu hụt vitamin kéo dài sẽ trở nên dễ thấy khi chúng ta có tuổi hơn.

    Tuy vậy, vào thế kỷ 21 hiện nay sẽ ít có trường hợp nào ăn uống hợp lý mà thiếu hụt vitamin trầm trọng, mặc dầu các chuyên gia dinh dưỡng cho rằng tất cả những người trưởng thành có thể thấy được tác dụng của việc dùng thêm các viên uống bổ sung. Đặc biệt đối với những ai chủ yếu ăn đồ ăn nhanh thì việc bổ sung vitamin đều đặn là việc hết sức quan trọng.
     
  6. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Co Enzyme Q10 (CoQ10)

    CoQ10 còn được biết đến là ubiquinone, là một chất không thể thiếu trong cơ thể
    . CoQ10 rất cần thiết cho quá trình xử lí chất dinh dưỡng thành adenosin triphosphat (ATP), một nguồn nhiên liệu giúp cho cơ thể hoạt động bình thường.

    CoQ10 cũng là một chất chống oxy hóa rất hiệu quả. Điều này có nghĩa nó có thể bảo vệ cơ thể khỏi các nhân tố gây hại trong cơ thể và bảo tồn vitamin E - chất chống oxy hóa mạnh nhất nhằm bảo vệ thành tế bào và cholesterol trong máu.

    Hấp thụ CoQ10 ở dạng vitamin đã được nghiên cứu là phương pháp làm tăng độ dẻo dai của cơ thể nhờ tính chất sản sinh năng lượng mạnh mẽ của nó. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng cụ thể để chứng minh rằng nó có thể tăng cường thể lực. Một số nghiên cứu đã so sánh CoQ10 ở những bệnh nhân khỏe mạnh với những bệnh nhân bệnh đau cơ xơ. Tuy nhiên, các nghiên cứu này không tìm thấy sự khác biệt trong mô hoặc máu.

    Mỗi tế bào trong cơ thể đều có CoQ10. Nó tồn tại dưới hình thức nhỏ gọn trong ty thể - phần của tế bào làm nhiệm vụ biến đổi chất dinh dưỡng tạo ra nhiên liệu cho cơ thể. CoQ10 được tìm thấy nhiều nhất trong gan và tim. Kết quả của tám nghiên cứu kiểm soát cũng như của nhiều nghiên cứu khác (tuy không phải là 100%) cho thấy một số bệnh nhân bị suy tim sung huyết có thể trợ giúp bằng cách dùng bổ sung CoQ10 . Chỉ có thể nhận thấy hiệu quả của CoQ10 sau vài tháng sử dụng. Việc ngưng sử dụng CoQ10 trong điều trị bệnh suy tim xung huyết đã dẫn đến bệnh tái phát nghiêm trọng. Do đó, việc ngưng điều trị chỉ nên được thực hiện khi được đề nghị bởi chuyên viên y tế.

    Medshop Vn dịch

    Theo Vitaguide.org
     
  7. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    DHA

    Axit Docosahexaenoic (DHA) là một axit béo omega-3, điều này có nghĩa là nó là một axit béo cần thiết cho cơ thể.

    Nghiên cứu đã chỉ ra rằng DHA có thể hạ thấp lượng chất béo trung tính trong máu. Điều này có lợi bởi vì nhiều chất béo trung tính sẽ gây ra bệnh tim, mặc dù bản chất chính xác của sự liên quan này vẫn chưa rõ ràng. Sử dụng DHA tinh khiết dường như có hiệu quả tương đương với sử dụng dầu cá - phương pháp truyền thống làm giảm lượng chất béo trung tính ở những người có nguy cơ mắc bệnh tim cao. Dầu cá có chứa cả DHA và axit eicosapentaenoic. Nghiên cứu cho thấy rằng DHA có vai trò thiết yếu đối với sự phát triển tốt của các hệ thống thị giác và thần kinh ở trẻ nhỏ. Các nghiên cứu cũng cho rằng DHA đóng vai trò quan trọng đối với hệ thần kinh của trẻ sơ sinh và trẻ lớn hơn, nhưng chưa biết rõ là ở mức độ nào.

    Dùng DHA bổ sung cho các nam thanh thiếu niên khỏe mạnh cho thấy sự suy giảm số lượng hoạt động của tế bào miễn dịch, bao gồm hoạt động của các tế bào tiêu diệt tự nhiên và các tế bào đóng vai trò trong quá trình viêm . Điều này có nghĩa rằng DHA hoạt động như một chất chống viêm, điều này làm cho nó có giá trị đối với các bệnh nhân bị rối loạn tự miễn. Tuy nhiên, những lợi thế tiềm năng của việc dùng DHA cần phải được xem xét, đánh giá song song với những nguy cơ có thể xảy ra khi sử dụng nó, vì nó có thể làm cho cơ thể dễ bị nhiễm trùng hơn.

    MedshopVn dịch

    Theo Vitaguide.org
     
  8. Philipp Le

    Philipp Le Thành viên mới

    Tham gia:
    18/7/2010
    Bài viết:
    47
    Đã được thích:
    14
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    thông tin bổ ích quá, cám ơn chủ top nhé, mình ít tìm hiểu về mấy cái này lắm nên hầu như chỉ biết vitamin có lợi thôi chứ cũng ko biết cụ tỉ nó như thế nào
     
  9. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Bổ sung vitamin như thế nào?

    Cuộc sống ngày nay cho phép chúng ta dễ dàng bổ sung vi chất vào khẩu phần thức ăn. Việc bổ sung sẽ là bắt buộc cho một số nhóm người, bao gồm:


    i) Những người 65 tuổi trở lên: Bởi vì, ở tuổi này, cơ thể khó hấp thụ một số loại vitamin. Vitamin tổng hợp giúp nâng cao sức đề kháng và giảm nguy cơ mắc một số bệnh truyền nhiễm.
    ii) Phụ nữ ở thời kì sau mãn kinh: Nên bổ sung canxi và vitamin D để phòng bệnh loãng xương.
    iii) Những người không ăn đủ năm loại rau quả được khuyên mỗi ngày.
    iv) Những người có chế độ ăn ít calo, chẳng hạn như, người đang ăn kiêng.
    v) Những người hút thuốc - Thuốc lá ngăn cản và làm giảm sự hấp thụ của vitamin như vitamin B6, vitamin C, axit folic, và thậm chí là niaxin. Chú ý rằng bổ sung vitamin không bù lại được sự nguy hiểm tới sức khỏe của việc hút thuốc.
    vi) Những người uống nhiều rượu - hơn một chai mỗi ngày. Bởi vì, uống nhiều rượu trong thời gian dài sẽ làm giảm khả năng hấp thụ của một số vitamin như vitamin B, vitamin A&D, axit folic, và vitamin B12.
    vii) Phụ nữ đang mang thai, hoặc mong muốn có thai.

    Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại vitamin bổ sung. Khi lựa chọn vitamin, phải lưu ý những điều sau đây:


    i) Tính khả dụng sinh học của vitamin: Hãy chọn các loại vitamin có nguồn gốc từ thức ăn dành cho người. Có nhiều loại vitamin được chiết xuất từ "nguồn gốc thiên nhiên" nhưng con người ít ăn như tảo, sẽ làm cho cơ thể khó hấp thụ.
    ii) Số lượng các loại vitamin: Hãy chọn vitamin tổng hợp vì nó bao gồm rất nhiều các vitamin hỗ trợ tích cực nhau. Hãy nhớ rằng, chúng ta cần tất cả các chất dinh dưỡng ở những liều lượng khác nhau. Dùng một viên vitamin tổng hợp với lượng yêu cầu hàng ngày sẽ tốt hơn khi dùng các viên uống bổ sung phân lượng cao của một hay một vài vitamin.
    iii) Hạn sử dụng của vitamin: Vì vitamin có hạn sử dụng nên hãy chỉ mua đủ dùng trong tháng. Bất cứ khi nào cần, bạn có thể mua thêm.
    iv) Bảo quản vitamin an toàn ở nơi khô, ráo, thoáng mát, và tránh xa tầm tay trẻ em.
    v) Các vấn đề về sức khỏe: Nếu tình trạng sức khỏe của bạn không tốt, bạn bị tiểu đường, hay đang phải dùng thuốc chẳng hạn, trước hết, xin vui lòng hỏi ý kiến bác sĩ.

    Theo disabledworld.com
     
  10. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Alanine

    Là một axit amin không thiết yếu, cơ thể sử dụng alanin để hình thành protein.

    Dịch tuyến tiền liệt có chứa alanin và các nghiên cứu cho thấy rằng amino axit đặc biệt này có thể đóng vai trò trong việc duy trì sức khỏe của tuyến tiền liệt. Ví dụ, một thử nghiệm lâm sàng đã nghiên cứu trên 45 người đàn ông bị tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH) và thấy rằng các triệu chứng của họ đã giảm sau khi uống kết hợp 780mg alanin mỗi ngày trong hai tuần, uống 390mg trong 2 tháng rưỡi tiếp theo với cùng lượng axit glutamic và glyxin. (Nghiên cứu này kiểm chứng độc lập.)



    MedShop dịch

    Theo VitaGuide.org
     
  11. baochipbi

    baochipbi Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    19/7/2012
    Bài viết:
    1,404
    Đã được thích:
    260
    Điểm thành tích:
    773
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    mình cũng quan tam như mẹ này...........................
     
  12. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Với đa số các loại vitamin thì uống trước hay sau bữa ăn không thực sự quan trọng. Tuy nhiên, với một số loại vitamin, bạn cần lưu ý:

    Uống viên bổ sung axit hydrochloric
    tốt nhất khi bắt đầu bữa ăn. Viên bổ sung axit hydrochloric thường dùng cho những người bị rối loạn axit hydrochloric trong dạ dày khi ăn. Nếu axit hydrochloric được uống vào lúc đói thì nó có thể gây cảm giác nóng dạ dày.

    Sắt nên được uống khi đói để được hấp thu tốt nhất. Nếu bạn uống loại vitamin tổng hợp có chứa sắt thì thời gian uống không quan trọng lắm. Nếu bạn uống viên sắt bổ sung để điều trị chứng thiếu máu thì tốt nhất là nên uống vào buổi sáng, vừa ngủ dậy và không được uống canxi hay vitamin E liền ngay sau đó

    Vitamin B tổng hợp thường là nguyên nhân dẫn tới cảm giác buồn nôn. Để tránh hiện tượng này, hãy uống vitamin B sau bữa ăn nhẹ. Uống ngay sau bữa ăn chính sẽ làm giảm khả năng hấp thụ vitamin B. Riêng B12 và axit folic nên uống khi đói.

    Enzym proteolytic cũng như bromelain uống tốt nhất là khi đói
    . Những enzym này sẽ đồng hóa các protein và chúng thường được uống với lượng lớn để giảm chứng viêm nhiễm. Nếu uống sau khi ăn, một số loại enzym có thể không được cơ thể hấp thụ.
    Rất nhiều chất chống ôxy hóa và chất sinh học nên uống tốt nhất khi đói. Các chất chống ôxy hóa và chất sinh học dùng cho nhiều mục đích nhưng sẽ được cơ thể hấp thụ tối đa khi dạ dày chống rỗng. Ví dụ như quercetin và vinpocetine.

    Các vi khuẩn latic (men tiêu hóa) như acidophilus và lactobacillus nên uống khi đói. Những loại men này rất quan trọng và cần thiết để có được một hệ tiêu hóa khỏe mạnh và dùng để điều trị bệnh nấm Candida và bổ sung các vi sinh đường ruột sau một đợt điều trị kháng sinh dài ngày.

    Vitamin là những vi chất rất quan trọng đối với cơ thể, nhưng không phải ai cũng biết được vai trò của từng vitamin và lại càng không chắc những thời điểm nào nên uống vitamin gì sẽ là hợp lý nhất. Do vậy các bạn hãy cùng tham khảo một số vitamin, vi chất sau đây và có kế hoạch bổ sung hợp lý theo từng thời điểm trong ngày nhé.

    Canxi

    Canxi rất quan trọng đối với hệ cơ xương của cơ thể, vì vậy bổ sung canxi và thực phẩm giàu canxi hết sức quan trọng, nhất là đối với trẻ em. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng bạn nên bổ sung canxi vào buổi tối trước khi đi ngủ, đó là thời điểm cơ thể hấp thụ tốt nhất lượng canxi này và không những vậy nó còn giúp bạn ngủ ngon giấc hơn đấy. Trường hợp uống canxi viên nén sẽ khó hấp thụ nhất, vì vậy bạn nên chia làm 2 lần sáng-tối để canxi hấp thụ tốt hơn. Một thói quen tốt đó là hãy uống một cốc sữa/sữa chua trước khi đi ngủ, cơ thể bạn sẽ “phản ứng” tốt hơn đấy, nếu bạn có con nhỏ thì hãy tạo cho bé thói quen đó nhé.
    Magiê

    Magiê cần thiết cho hệ cơ của cơ thể và ngăn ngừa các nguy hiểm đến từ các bệnh tim mạch, đái đường, huyết áp cao hay loãng xương… Magiê có nhiều trong chất diệp lục, vì vậy rau xanh chính là nguồn bổ sung magiê tốt cho bạn. Magiê và Canxi được coi là “Cặp đôi hoàn hảo” khi chúng hỗ trợ hấp thụ lẫn nhau, vì vậy khi bổ sung Magiê hãy nhớ tới Canxi nhé.
    Vitamin và bữa ăn

    Không phải vô lý khi mà các bác sĩ, chuyên gia y học luôn khuyên bạn nên uống vitamin cùng với bữa ăn, đó là bởi vì thức ăn sẽ góp phần giúp cơ thể hấp thụ vitamin tốt hơn.

    - Các vitamin A, D, E và K là những vitamin được hấp thụ tốt trong chất béo, vì vậy nếu bạn đang sử dụng những vitamin/thực phẩm chứa các vitamin nói trên thì đừng quên bữa ăn giàu chất béo nhé.

    - Nhóm vitamin B dễ bị hòa tan trong nước và không được lưu giữ lại trong cơ thể. Vì vậy khi sử dụng các vitamin này bạn nên uống đủ nước để duy trì vitamin lâu hơn. Nhóm vitamin này cũng cần phải bổ sung hàng ngày để giúp cơ thể bạn khỏe mạnh.

    - Vitamin C chỉ tồn tại trong máu vài giờ đồng hồ, vì vậy cách tốt nhất để bổ sung vitamin C là không nên sử dụng toàn bộ liều uống vào 1 thời điểm/bữa ăn mà nên chia nhỏ làm 3 lần tương ứng với 3 bữa trong ngày. Ngoài ra vitamin C có tính chất kích thích cao, do vậy nên tránh sử dụng trước khi đi ngủ bởi nó sẽ khiến bạn khó ngủ hơn.

    - Chất xơ rất phù hợp với bữa sáng của bạn, vì vậy các món ăn ngũ cốc, rau vào buổi sáng chính là sự lựa chọn tốt cho dạ dày và ruột của bạn. Tuy nhiên chất xơ khiến cho vitamin khó hấp thụ vào cơ thể bởi nó tạo thành một lớp chắn ở niêm mạc dạ dày, vì vậy tốt nhất không nên uống vitamin trước khi ăn chất xơ. Đặc biệt là chất sắt cực kỳ khó hấp thụ đối với chất xơ.

    - Probiotics, những vi khuẩn tích cực giúp ích cho hệ thống tiêu hóa của cơ thể, hiện đang rất phổ biến trong nhiều sản phẩm. Nếu bạn bổ sung Probiotics cho cơ thể, hãy kết hợp với bữa ăn của bạn, có thể trước bữa ăn khoảng 20 phút hoặc trong/sau bữa ăn sẽ giúp hấp thu có hiệu quả nhất.
    Mẹo nhỏ khi sử dụng vitamin

    Sẽ rất khó cho bạn nếu bạn phải cố gắng ghi nhớ uống vitamin này vào lúc này, vitamin kia vào lúc khác, nhất là khi bạn đang cần bổ sung nhiều loại vitamin khác nhau. Có một số cách đơn giản giúp bạn có thể nhớ và sử dụng vitamin hiệu quả:

    Hãy đặt thời gian biểu đối với mỗi loại vitamin bạn uống hàng ngày, có thể sử dụng lịch nhắc trong điện thoại của bạn chẳng hạn.
    Hãy để hộp thuốc gần những nơi bạn có thể thấy trong bữa ăn, như vậy bạn sẽ không quên uống thuốc trước, trong hoặc sau bữa ăn.
    Đừng quên rằng vitamin không chỉ là thuốc mà còn có trong thức ăn, có thói quen xây dựng những thực đơn giàu dinh dưỡng và hợp lý chính là cách lâu dài và tốt nhất cho cả gia đình.
    Trẻ em rất cần vitamin cho sự phát triển và trí tuệ. Hãy theo dõi bé để có thể giúp bé bổ sung vitamin thật tốt nhé.
     
  13. ha.vi2011

    ha.vi2011 Thành viên kỳ cựu

    Tham gia:
    29/8/2012
    Bài viết:
    7,469
    Đã được thích:
    1,800
    Điểm thành tích:
    863
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    theo mình cho be ăn thức ăn có nh vitamin chứ k nên uống vitamin nếu trẻ dưới 1 tuổi
     
  14. tasmania

    tasmania Thành viên chính thức

    Tham gia:
    19/9/2009
    Bài viết:
    130
    Đã được thích:
    15
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    cho minh hoi rainbow light just one co dung cho tre so sinh moi de dc ko a
     
  15. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Với trẻ sơ sinh, mới đẻ chưa ăn dặm được thì mình nghĩ là không sử dụng được Just Once - NutriStart bạn ạ. Vì:
    Theo hướng dẫn của nhà sản xuất thì Just Once - NutriStart được sử dụng như sau:

    Pha với sữa bột, đồ uống, hay thức ăn như ngũ cốc, sữa chua hay applesauce. Không trộn với đồ ăn nóng.

    Đối với trẻ sơ sinh từ 6 tới 12 tháng - ¼ thìa cà phê (1/2 gói) mỗi ngày. Đối với trẻ em từ 1-4 tuổi - ½ thìa cà phê (cả gói) mỗi ngày.

    Thực tế, thì nó ko tan trong nước vì thế chỉ thích hợp cho trẻ từ sau khi ăn dặm được thui bạn ạ, khi đó bạn mới có thể pha trộn sản phẩm với đồ ăn dặm và cho bé sử dụng.
     
  16. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    L-Carnitine Acetyl

    Tương tự như axit amin L-carnitin, Acetyl-L-carnitin tham gia vào quá trình biến đổi thức ăn thành năng lượng sử dụng được.

    Để các chức năng tâm thần diễn ra đúng, cơ thể phải sản xuất ra acetylcholin. Gốc Acetyl, là một phần của acetyl-L-carnitin, đóng một phần quan trọng trong quá trình sản xuất chất dẫn truyền thần kinh quan trọng này. Trong thực tế, một số nghiên cứu y học đã tìm được mối liên kết giữa acetyl-L-carnitin với việc hạn chế tiến trình phát triển của bệnh Alzheimer, và cho rằng tình hình sức khỏe chung ở những bệnh nhân mắc Alzheimer tiến triển lên khi có lượng acetyl-L-carnitin đầy đủ. Nghiên cứu về chất dinh dưỡng này với mối liên quan đến Alzheimer được tiến hành với dạng acetyl-L-carnitin chứ không phải với dạng L-carnitin.

    Một nghiên cứu y học khác cho thấy những người bị mất điều hòa tiểu não thoái hóa, một căn bệnh ảnh hưởng đến tiểu não gây tổn hại sự phối hợp cơ bắp, cũng có thể hưởng những lợi ích từ acetyl-L-carnitin.

    Theo Vitaguide

    MedShop.vn dịch
     
  17. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Melatonin

    Melatonin là hoóc môn nổi bật nhất được sản xuất bởi tuyến tùng - cơ quan nằm trên cột sống. Các mô ngoại tùng ở động vật lưỡng cư cũng sản xuất melatonin. Melatonin cũng có trong một số loài thực vật, nhưng với số lượng nhỏ hơn nhiều.
    Trong những năm gần đây, melatonin nổi tiếng vì khả năng trợ giúp giấc ngủ cùng một số ứng dụng khác. Một nhóm các nhà nghiên cứu đã xem xét ảnh hưởng của melatonin đối với những người trưởng thành khỏe mạnh. Các đối tượng nghiên cứu dùng melatonin đã giảm được thời gian bắt đầu giấc ngủ và ngủ ngon hơn. Các nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự.
    Melatonin cũng được sử dụng để giúp những người bị trầm cảm nặng đi ngủ. Tuy nhiên, ứng dụng này vẫn còn gây tranh cãi vì có một số bằng chứng cho rằng melatonin có thể làm bệnh trầm cảm nặng hơn. Melatonin chỉ được dùng để điều trị trầm cảm dưới sự hướng dẫn của bác sĩ.
    Melatonin cũng có thể giúp duy trì hệ thống miễn dịch làm việc hiệu quả. Chính vì điều này mà melatonin có thể giúp điều trị bệnh ung thư.
    Melatonin được sản xuất bởi tuyến tùng nằm trong não. Lượng melatonin trong não thay đổi liên tục trong ngày. Lượng melatonin nhiều nhất có vào ban đêm trong khi lượng maletonin trong não vào ban ngày lại rất ít. Thực phẩm nói chung không phải là một nguồn cung cấp melatonin phong phú.

    Theo Vitaguide.org

    MedShop.vn dịch
     
  18. vongdautam

    vongdautam Cơ sở sản xuất vòng dâu tằm An huy 0909886836

    Tham gia:
    20/4/2012
    Bài viết:
    16,613
    Đã được thích:
    3,126
    Điểm thành tích:
    2,113
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    đánh dấu ngâ mcứu.........................................
     
  19. medshopvn

    medshopvn Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    5/3/2010
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    122
    Điểm thành tích:
    43
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    Axit pantothenic (vitamin B5)

    Axit pantothenic thuộc nhóm vitamin B-phức hợp và thường được gọi là vitamin B5. Axit Pantothenic là một vitamin thiết yếu và nó đóng nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể, bao gồm cả biến đổi thức ăn thành năng lượng sử dụng được, dị hóa các axit amin và axit béo, hấp thụ axit béo, phospholipit, sphingolipit, cholesterol, các hoóc môn steroit, sự hấp thụ heme và acetylcholine - một chất truyền thần kinh. Ngoài ra, axit pantothenic còn tham gia vào quá trình biểu hiện di truyền và tín hiệu tải nạp. Roger J. Williams là người đầu tiên tìm ra axit pantothenic. Ông cũng rất nổi tiếng khi là một trong những nhà khoa học đầu tiên sử dụng chất dinh dưỡng và vitamin tự nhiên để giữ cho cơ thể khỏe mạnh hoặc điều trị khi các vấn đề về sức khỏe phát sinh. Ông cho rằng axit pantothenic có hiệu quả trong điều trị một số bệnh như viêm khớp dạng thấp.

    Axit Pantothenic đồng thời có tác dụng kích thích tuyến thượng thận. Và một sản phẩm phụ của axit pantothenic gọi là pantethine được cho là có thể giúp điều trị lượng cholesterol trong máu hay lượng chất béo trung tính triglycerit cao.

    Theo Vitaguide

    MedShop.vn dịch
     
  20. Ông già tuyết

    Ông già tuyết Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    18/12/2012
    Bài viết:
    102
    Đã được thích:
    53
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Vitamin, khoáng chất - Những kiến thức cơ bản

    TÌm hiểu mới thấy kiến thức của mình ít thật đó
     

Chia sẻ trang này